ĐÁNH GIÁ MÔ HÌNH DẠY HỌC18/01/2015
ĐÁNH GIÁ VỀ MÔ HÌNH DẠY HỌC
TS Mathew Pisciouneri,
Đại học MONASH
Mô hình MRM và ILLS
• Giải thích về mô hình phụ: MiRM và ILLS
Một phần nhỏ trong nghiên cứu này nhằm khảo sát về ích lợi của hai mô hình
phụ trong cung cấp tài liệu học tập cho sinh viên. Mô hình thứ nhất là “mô hình
đọc tối thiểu” [MiRM] tìm hiểu xem phương pháp Đọc tối thiểu tài liệu yêu cầu
trước khi nghe giảng có giúp cải thiện kết quả học tập của sinh viên, đặc biệt là ở
giai đoạn chuyển tiếp hay không.
Mô hình thứ hai là “hỗ trợ học tập và ngôn ngữ kết hợp” [ILLS], trong đó nguồn
tài liệu hỗ trợ học tập và ngôn ngữ (chú giải, từ điển, công cụ dịch, các chiến
lược phát triển kỹ năng, từ điển chuyên đề và các buổi hướng dẫn chuyên đề)
được phát kèm với tài liệu của khóa học.
• Cơ sở lý luận và phạm vi ứng dụng
Giả thuyết nghiên cứu của chúng tôi, đặc biệt đối với những sinh viên chuyển
tiếp ở bất kỳ cấp độ nào ở bậc giáo dục đại học, là việc tuyển sinh vào một môi
tường chuyên môn cụ thể nào cũng nên dần dần và phải được kiểm tra. Chúng tôi
xem “đường cong học tập” tối ưu là một chuỗi các giai đoạn tích lũy kiến thức;
giai đoạn sau sẽ xây dựng tiếp từ giai đoạn trước trong một chu trình “thích
nghi”, nhờ đó người học sẽ từng bước tiếp cận một cách bài bản hơn với không
chỉ các thuật ngữ phục vụ môn học và nội dung môn học mà còn các kỹ năng hỗ
trợ học tập, kỹ năng phân tích và đánh giá, kỹ năng giao tiếp cần thiết (xem file
“đường cong học tập”.doc). Dựa trên những nguyên tắc sư phạm này, chúng tôi
cho rằng mô hình MiRM sẽ rất có ích trong việc yêu cầu sinh viên đọc tài liệu
chuẩn bị trước khi nghe giảng.
Phương pháp MiRM mang lại nhiều lợi ích mà không cần một cơ sở nền móng
nào. Chúng tôi cho rằng phương pháp kết hợp tài liệu hỗ trợ học tập với tài liệu
hỗ trợ ngôn ngữ sẽ giúp mang đến cho người học một cách tốt hơn những nguồn
tài liệu mà– theo nghiên cứu– vẫn thường được người học sử dụng không đúng
mức do một vài nguyên nhân nào đó- kể cả việc người học phải mất nhiều thời
gian để truy cập vào những nguồn tài liệu này (theo Moore và Oppy 2001)
• Thuật ngữ
MiRM= mô hình đọc tối thiểu
MaRM= mô hình đọc tối đa
ILLS= hỗ trợ học tập và ngôn ngữ kết hợp
DLLS= hỗ trợ học tập và ngôn ngữ tách biệt
Mô hình đọc tối thiểu MiRM bao gồm các đoạn trích ngắn từ các nguồn, các chú
giải của giảng viên nhằm hỗ trợ nội dung bài giảng. Trong các đoạn trích có chú
dẫn, các thuật ngữ chính sẽ được nêu rõ và có các bảng chú giải thuật ngữ đi kèm
và có thể có cả các đường dẫn kết nối tới nguồn tài liệu dịch. Như vậy, sinh viên
sẽ có thể thu thập được nhiều thông tin hơn (có thể cả những nghiên cứu/các
thông tin về cơ sở lý luận) trong thời gian học.
Ngược lại, mô hình đọc tối đa MaRM nói đến việc cung cấp các danh mục sách,
các chương sách, hoặc các bài báo đầy đủ cần đọc trước khi nghe giảng, nhưng
thường thì không có các chú dẫn giải thích kèm theo. Chúng tôi cho rằng mô
hình này chỉ là để “phát triển ý tưởng”, đó là một mô hình không linh hoạt và
phản tác dụng. Chúng tôi có cảm giác rằng mô hình đọc tốiđa xuất phát từ mô
hình trước đây gọi là “những yêu cầu của khóa học”: khi mà một nhóm học sinh
ưu tú có thể được cung cấp một danh mục các tài liệu cần đọc và buộc phải dần
dần tự đọc qua hết các tài liệu đó.
Ngược với mô hình tài liệu hỗ trợ học tập và ngôn ngữ tách rời, trong đó các
nguồn tài liệu được cung cấp ở một số địa chỉ và qua một vài hình thức truy cập
khác nhau, mô hình ILLS là sự cung cấp “liền tay” các tài liệu hỗ trợ học tập và
ngôn ngữ (chú giải, từ điển, từ điển chuyên ngành và các công cụ dịch thuật, các
chiến lươc phát triển kỹ năng và các buổi hướng dẫn chuyên đề), kèm theo cùng
với tài liệu chính của khóa học như: tài liệu môn học và hướng dẫn học.
• Mối liên hệ với khung nghiên cứu chung
Nghiên cứu về mô hình MiRM và ILLS bổ sung trực tiếp cho mục đích nghiên
cứu chính của chúng tôi về lựa chọn của người học đối với mô hình dạy học.
Đánh giá hình thức và phương thức giảng dạy tối ưu của cả hai mô hình sẽ cung
cấp những thông tin cần thiết cho nghiên cứu hiện nay của chúng tôi về mô hình
cung cấp tài liệu dạy và học và cách nhìn nhận chúng. Một luận điểm quan trọng
của dự án nghiên cứu này là: các mô hình giảng dạy chuyên ngành cụ thể sẽ thúc
đẩy phương thức giảng dạy theo mô hình ILLS. Điều này nêu bật đặc trưng tích
cực độc đáo của các phương thức này đồng thời thu hút sự chú ý tới một vấn đề
quan trọng tương tự- đó là việc học sinh thích lựa chọn tài liệu đọc ở dạng văn
bản hơn hay là trên màn hình.
Xét về hiệu quả, việc khảo sát những mô hình giảng dạy phụ này giúp xác định
một vài vấn đề quan trọng trong cuộc tranh luận trên diện rộng hơn về phương
thức cung cấp tài liệu học tập bao gồm những vấn đề thực tế ở bậc giáo dục đại
học như thời gian và giới hạn truy cập tài liệu cũng như các yếu tố tài chính. Tất
cả những yếu tố này đều có tác động đến cách sinh viên tiếp cận tài nguyên học
tập và chọn lựa các hình thức cung cấp tài liệu.
• Cơ sở phát triển mô hình MiRM và ILLS
…. Theoquanđiểm của chúng tôi, danh mục tài liệu sách cầnđọc là một sự lãng
phí thời gian (Fairbrain &Fairbrain, 2001:88)
Mặc dù Đọc được nhìn nhận là kỹ năng học thuật chính, một điều đáng ngạc
nghiên là có rất ít nghiên cứu –kể cả gần đây hoặc trước đây- nghiên cứu về các
yêu cầu đọc tài liệu môn học (đối với sinh viên chưa tốt nghiệp hoặc đã tốt
nghiệp).
Một số cuốn sách đại cương như Hướng dẫn học độc lập của Loraine Marshall
và Frances Rowland (1995), Đọc ở Đại học của Gavin and Susan Fairbairn
(2001) hoặc Introducing students to the culture of enquiry in an arts degree của
Kate Chanock ((2004), dù hay đến đâu, cũng đều có xu hướng xác định “vấn đề”
đọc trong khuôn khổ phát triển kỹ năng. Các chiến lược đọc hữu ích (đoc lướt,
đọc quét, tóm tắt và kỹ thuật đánh dấu) cũng được bàn đến nhưng phương pháp
tạo lập các danh mục sách cần đọc lại ít được chú ý. Và do vậy các phương pháp
thay thế không được đề cập cũng là một điều dễ hiểu. Các nghiên cứu về vấn đề
này có xu hướng tập trung nhiều vào các phương pháp sinh viên đọc sách ở
trường đại học, bỏ qua các vấn đề cần thiết có liên quan và chưa rõ ràng trong
thực tế giảng dạy. Chẳng hạn, Paul Ramsden (1992) bàn luận về việc đọc ở đại
học trong khuôn khổ rộng hơn lý thuyết học tập, cụ thể là “khái niệm về cách học
tập” (trang 39). Michael Prosser và Keith Trigwell (1999) tiếp tục quan điểm của
Ramsden nhấn mạnh vào các đường hướng học tập của học sinh (trang. 83).
Nghiên cứu của chúng tôi sẽ tiếp tục căn cứ vào đường hướng lấy người học làm
trung tâm. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đề cập đến việc liên hệ với các giảng viên
và lý tưởng là sẽ tạo một phương pháp đổi mới và hiệu quả cho kỹ năng học tập
“điểm đen” này. Với việc phổ biến kết quả nghiên cứu hiệu quả, chúng tôi hi
vọng nghiên cứu này có thể mang lại một số gợi ý đáng kể cho các giảng viên
trong việc thiết kế các danh mục tài liệu cần đọc trước khi giảng bài trong tương
lai.
Sự tiến bộ về khả năng đọc hiểu nội dung các tài liệu của môn học đó hi vọng sẽ
mang lại kết quả học tập tốt hơn. Nhưng điều này, như thường lệ, còn phụ thuộc
vào sự thành công trong việc lôi cuốn người học tham gia. Nghiên cứu này được
tiến hành nhằm tập trung nâng cao mức độ tham gia học tập của sinh viên, đặc
biệt là đối với sinh viên chuyển tiếp, sinh viên khuyết tật và sinh viên đến từ các
nước không nói tiếng Anh.
• Mô hình thông thường
1. MaRM + mẫu [link to EDF 6236 or online Library lists]
2. DLLS + mẫu [link to LLS online…philosophy writing]
• Các mô hình trước đây [link to phl1010 study guide]
• Mô hình lý tưởng Cosmopolitanism lecture [link to DVD prototype online]
• Các mô hình thực tế: EDF 6236-07 & 08 [link to CD] PHL 1010-08
[hardcopy in Symposium packs]
• Thảo luận
- Ưu điểm và khó khăn của các mô hình khác nhau
- Các tác nhân bên ngoài và thách thức
- Dẫn ngựa đi uống nước…
» Tin mới nhất:
- POWER phương pháp học hiệu quả cho sinh viên
- Phương pháp nâng cao trí nhớ
- PHƯƠNG PHÁP HỌC KANJI TRONG MÔN NHẬT NGỮ
- MÔI TRƯỜNG HỌC TẬP TÍCH CỰC
- Cải tiến phân loại tư duy của Bloom
- Phương pháp tìm kiếm và chọn lọc nguồn tài liệu
- Chia sẻ tài liệu luyện thi TOEIC, IELTS,...
- PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC TẬP SÁNG TẠO HIỆU QUẢ “POMODORO”
- Thiết lập mục tiêu
- TỰ HỌC IELTS TỪ CON SỐ 0 LÊN 4.5~5.5
» Tin khác: