0236.3827111

Bệnh cúm mùa - Tình hình toàn cầu


BỆNH CÚM MÙA - TÌNH HÌNH TOÀN CẦU

Tổng quan tình hình

Cúm mùa là một bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính do virus cúm gây ra, loại virus này lưu hành toàn cầu và quanh năm. Bệnh có thể gây ra các triệu chứng từ nhẹ đến nặng, đôi khi dẫn đến nhập viện hoặc tử vong. Hoạt động của cúm mùa trên toàn cầu đã gia tăng trong những tháng gần đây, với tỷ lệ virus cúm mùa A(H3N2) được phát hiện ngày càng tăng. Sự gia tăng này trùng khớp với thời điểm bắt đầu mùa đông ở bán cầu bắc và sự gia tăng các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính do cúm và các virus đường hô hấp khác thường được quan sát thấy vào thời điểm này trong năm. Mặc dù hoạt động toàn cầu vẫn nằm trong phạm vi theo mùa dự kiến, nhưng sự gia tăng sớm và hoạt động cao hơn so với thông thường vào thời điểm này trong năm đã được quan sát thấy ở một số khu vực. Virus cúm mùa, bao gồm cả virus A(H3N2), liên tục tiến hóa theo thời gian. Kể từ tháng 8 năm 2025, đã có sự gia tăng nhanh chóng các virus thuộc phân nhóm A(H3N2) J.2.4.1 hay còn gọi là K được phát hiện từ một số quốc gia dựa trên dữ liệu trình tự gen có sẵn. Các virus thuộc phân nhóm K này có một số thay đổi so với các virus A(H3N2) có liên quan. Dữ liệu dịch tễ học hiện tại không cho thấy sự gia tăng mức độ nghiêm trọng của bệnh, mặc dù phân nhóm này đánh dấu một sự tiến hóa đáng chú ý trong virus cúm A(H3N2). Các ước tính ban đầu cho thấy vắc-xin cúm vẫn tiếp tục bảo vệ cả trẻ em và người lớn khỏi phải nhập viện, mặc dù hiệu quả của nó đối với bệnh cúm lâm sàng trong mùa hiện tại vẫn chưa chắc chắn. Vắc-xin vẫn rất cần thiết, đặc biệt đối với những người có nguy cơ cao bị biến chứng cúm và người chăm sóc họ. Ngay cả khi có một số khác biệt về mặt di truyền giữa các virus cúm đang lưu hành và các chủng có trong vắc-xin, vắc-xin cúm mùa vẫn có thể bảo vệ chống lại các virus biến dị và các chủng virus khác có trong vắc-xin. Tiêm chủng vẫn được kỳ vọng sẽ bảo vệ chống lại bệnh nặng và vẫn là một trong những biện pháp y tế công cộng hiệu quả nhất. WHO tiếp tục theo dõi hoạt động cúm toàn cầu và các virus cúm, hỗ trợ các quốc gia về năng lực giám sát và cập nhật hướng dẫn khi cần thiết.

Khu vực Đông Nam Á

Số ca phát hiện cúm ở khu vực Đông Nam Á bắt đầu tăng từ tháng 6, đạt đỉnh điểm vào tháng 8 và kể từ đó nhìn chung duy trì ở mức thấp, ngoại trừ một vài trường hợp. Trong giai đoạn từ tháng 2 đến tháng 11 năm 2025, tỷ lệ cúm A trong số tất cả các loại virus cúm được xét nghiệm dương tính là 66%. Cúm A(H3N2) là phân nhóm chiếm ưu thế (43%) trong lây truyền, tiếp theo là A(H1N1)pdm09 (~20%). Tại Thái Lan, số ca phát hiện cúm chủ yếu là A(H3N2) tăng lên trong tháng 10 và tháng 11. Số ca phát hiện cúm A(H3N2) cũng tăng lên kể từ tháng 7 ở Bangladesh và tháng 10 ở Sri Lanka. Trong khi khu vực này chứng kiến ​​sự gia tăng cúm A(H3N2), tính đến ngày 30 tháng 11, đã có 22 trình tự của phân nhóm K được báo cáo trong GISAID từ Nepal (1), Ấn Độ (4) và Thái Lan (17).

Dịch tễ học

Cúm mùa là một bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính do virus cúm gây ra, chúng lưu hành toàn cầu và quanh năm. Ở các vùng ôn đới, cúm mùa thường đạt đỉnh điểm vào các tháng mùa đông, trong khi ở các vùng nhiệt đới, virus cúm có thể lưu hành quanh năm với tính mùa vụ và cường độ khác nhau giữa các quốc gia.

Có bốn loại virus cúm, loại A, B, C và D. Virus cúm A và B lưu hành và gây ra các đợt dịch bệnh theo mùa:

Virus cúm A được phân loại tiếp thành các phân nhóm dựa trên sự kết hợp của các protein trên bề mặt virus. Hiện đang lưu hành ở người là virus cúm phân nhóm A(H1N1) và A(H3N2). Virus cúm B không được phân loại thành các phân nhóm nhưng có thể được chia thành các dòng. Virus cúm loại B thuộc dòng B/Yamagata hoặc B/Victoria.

Cúm lây lan dễ dàng giữa người với người khi họ ho hoặc hắt hơi. Bệnh cúm có thể gây ra các triệu chứng từ nhẹ đến nặng, đôi khi dẫn đến nhập viện hoặc tử vong. Mặc dù hầu hết mọi người hồi phục trong vòng một tuần mà không cần chăm sóc y tế, bệnh cúm có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng, bao gồm cả tử vong, đặc biệt là ở các nhóm nguy cơ cao như trẻ nhỏ, người cao tuổi, phụ nữ mang thai và những người có bệnh nền. Nhân viên y tế và chăm sóc sức khỏe có nguy cơ cao bị nhiễm virus cúm do tiếp xúc nhiều với bệnh nhân, và có nguy cơ lây lan thêm, đặc biệt là cho những người dễ bị tổn thương.

Lời khuyên của WHO

Giám sát

Do tính chất luôn thay đổi của virus cúm, WHO tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giám sát toàn cầu quanh năm để phát hiện và theo dõi những thay đổi về virus học, dịch tễ học và lâm sàng liên quan đến các virus cúm mới nổi hoặc đang lưu hành có thể ảnh hưởng đến sức khỏe con người và việc chia sẻ thông tin virus kịp thời để đánh giá rủi ro. Các quốc gia được khuyến khích duy trì cảnh giác với mối đe dọa của virus cúm và xem xét bất kỳ mô hình dịch tễ học bất thường nào.

WHO khuyến cáo các quốc gia thành viên duy trì giám sát các tác nhân gây bệnh đường hô hấp thông qua một phương pháp tích hợp, xem xét bối cảnh quốc gia, ưu tiên, nguồn lực và năng lực. WHO đã công bố hướng dẫn về giám sát virus đường hô hấp tích hợp. WHO cũng đã cập nhật hướng dẫn về đánh giá mức độ nghiêm trọng của dịch cúm và đại dịch, bao gồm cả tác động đến các cơ sở chăm sóc sức khỏe.

Quản lý lâm sàng và dự phòng

Chăm sóc lâm sàng đối với bệnh cúm theo mùa tập trung vào việc xác định mức độ nghiêm trọng của bệnh, đánh giá nguy cơ tiến triển và kết nối với chăm sóc dứt điểm. Hầu hết các trường hợp đều nhẹ và tự khỏi, nhưng bệnh nặng, đặc trưng bởi suy hô hấp, nhiễm trùng huyết, hội chứng suy hô hấp cấp tính hoặc suy đa cơ quan, cần được chăm sóc hỗ trợ khẩn cấp và thường phải nhập viện. Quản lý lâm sàng bệnh cúm bao gồm chăm sóc hỗ trợ chất lượng cao—liệu pháp oxy, theo dõi, bù nước và hỗ trợ hô hấp—và là nền tảng để cải thiện kết quả điều trị, đặc biệt là trong các trường hợp nặng.

Xét nghiệm chẩn đoán cần hỗ trợ việc ra quyết định nhanh chóng: xét nghiệm khuếch đại axit nucleic (NAAT) được khuyến cáo có điều kiện để xác nhận bệnh nghi ngờ ở những bệnh nhân bị bệnh nặng, trong khi NAAT hoặc xét nghiệm miễn dịch kỹ thuật số có thể được sử dụng cho các trường hợp không nặng, tùy thuộc vào bối cảnh và nguồn lực sẵn có. Xét nghiệm nên được thực hiện sớm với mục đích xác định những người cần điều trị và kết nối họ với dịch vụ chăm sóc, bao gồm cả thuốc kháng virus khi cần thiết.

Những bệnh nhân có nguy cơ cao tiến triển thành bệnh nặng có thể được hưởng lợi từ thuốc kháng virus để giảm nguy cơ nhập viện. Các nhóm nguy cơ cao bao gồm người lớn ≥65 tuổi, những người có tình trạng suy giảm miễn dịch, bệnh tim mạch, thần kinh hoặc hô hấp mãn tính; bệnh ác tính, mang thai và tiểu đường làm tăng thêm nguy cơ. Những người ≥85 tuổi hoặc những người có nhiều yếu tố nguy cơ được coi là có nguy cơ cực kỳ cao và có thể được xem xét điều trị dự phòng bằng thuốc kháng virus nếu tiếp xúc với virus cúm.

Các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát nhiễm trùng trong môi trường chăm sóc sức khỏe

Bệnh cúm mùa được biết đến là nguyên nhân gây ra các đợt bùng phát nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là tại các cơ sở chăm sóc dài hạn. WHO khuyến cáo sử dụng sàng lọc triệu chứng tại tất cả các điểm vào cơ sở chăm sóc sức khỏe và như một phần của đánh giá bệnh nhân nội trú hàng ngày để đảm bảo rằng những bệnh nhân nghi ngờ hoặc đã được xác nhận nhiễm trùng có thể lây truyền trong môi trường chăm sóc sức khỏe, bao gồm cả cúm, được xác định càng sớm càng tốt và các biện pháp phòng ngừa lây truyền thích hợp được thực hiện. WHO khuyến cáo sử dụng các biện pháp phòng ngừa lây truyền qua giọt bắn khi chăm sóc bệnh nhân nghi ngờ hoặc đã được xác nhận mắc cúm. Điều này bao gồm việc bố trí bệnh nhân thích hợp (cách ly) các trường hợp nghi ngờ hoặc đã được xác nhận, và việc sử dụng khẩu trang y tế bởi tất cả nhân viên y tế, nhân viên chăm sóc và khách thăm khi chăm sóc bệnh nhân nghi ngờ hoặc đã được xác nhận mắc cúm.

Đánh giá rủi ro thích hợp về việc sử dụng thêm thiết bị bảo hộ cá nhân (ví dụ: bảo vệ mắt, mặt nạ lọc khí, áo choàng, găng tay) nên được thực hiện bởi nhân viên y tế và nhân viên chăm sóc khi chăm sóc bệnh nhân mắc cúm. Nguy cơ lây truyền cúm có thể tăng lên trong trường hợp các hoạt động chăm sóc hoặc triệu chứng của bệnh nhân có khả năng tạo ra các tia bắn hoặc giọt máu, dịch cơ thể, dịch tiết và chất bài tiết lên niêm mạc mắt, mũi hoặc miệng; hoặc nếu tiếp xúc gần với bệnh nhân có triệu chứng đường hô hấp (ví dụ: ho/hắt hơi) và các giọt dịch tiết có thể tiếp xúc trực tiếp với niêm mạc mắt, mũi hoặc miệng, hoặc gián tiếp qua bàn tay bị nhiễm bẩn. Khi thực hiện thủ thuật tạo khí dung trên bệnh nhân nghi ngờ hoặc đã được xác nhận mắc cúm, nên cách ly bệnh nhân trong phòng cách ly nhiễm trùng đường không khí cũng như áp dụng các biện pháp phòng ngừa lây truyền qua đường không khí và tiếp xúc, bao gồm cả bảo vệ mắt.

Tiêm phòng

Tiêm phòng là cách tốt nhất để phòng ngừa bệnh cúm. Vắc xin an toàn và hiệu quả đã được sử dụng hơn 60 năm. Virus cúm liên tục thay đổi, vì vậy thành phần của vắc xin cúm mùa được cập nhật thường xuyên để chứa các virus có liên quan nhiều hơn đến các virus đang lưu hành. WHO, thông qua Chương trình Cúm Toàn cầu và GISRS, phối hợp với các đối tác, liên tục theo dõi virus cúm và hoạt động trên toàn cầu và khuyến nghị thành phần vắc xin cúm mùa vào tháng Hai và tháng Chín cho các mùa cúm tiếp theo ở bán cầu bắc và nam, tương ứng.

WHO khuyến nghị tiêm phòng hàng năm cho các nhóm có nguy cơ cao, bao gồm nhân viên y tế và chăm sóc sức khỏe. Lý tưởng nhất là mọi người nên tiêm phòng đầy đủ.

Nguồn: WHO. (2025). Seasonal influenza - Global situation. https://www.who.int/emergencies/disease-outbreak-news/item/2025-DON586

Sưu tầm: Phạm Thị Thảo