Nghiên cứu đánh giá liệu chế độ ăn của mẹ có thể phòng ngừa dấu hiệu sớm của dị ứng thực phẩm ở trẻ sơ sinh
Một thử nghiệm lâm sàng do Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ (NIH)
tài trợ đã chính thức khởi động nhằm đánh giá liệu việc người mẹ ăn đậu phộng
và trứng trong thai kỳ và thời gian cho con bú có thể ngăn ngừa sự xuất hiện sớm
của dị ứng với các thực phẩm này ở trẻ sơ sinh hay không. Dị ứng thực phẩm ảnh
hưởng khoảng 8% trẻ em tại Hoa Kỳ, đôi khi gây phản ứng nặng hoặc đe dọa tính mạng;
trong đó đậu phộng và trứng là hai dị nguyên thường gặp ở giai đoạn sớm của trẻ.
Theo TS. Alkis Togias (NIAID), việc cho trẻ tiếp xúc sớm với
dị nguyên qua chế độ ăn ở giai đoạn 4–6 tháng tuổi đã chứng minh hiệu quả phòng
ngừa, nhưng với một số trẻ thì can thiệp này đã quá muộn. Do đó, cần các chiến
lược phòng ngừa sớm hơn, ngay từ giai đoạn trước khi trẻ ăn dặm. Các nghiên cứu
cho thấy trước khi tiếp xúc trực tiếp với đậu phộng hoặc trứng, một số trẻ đã
xuất hiện kháng thể IgE đặc hiệu, là tiền đề của dị ứng thực phẩm. Điều này nhấn
mạnh sự cần thiết của các biện pháp dự phòng diễn ra trước khi đưa thức ăn đặc
vào chế độ ăn của trẻ. Đến nay, bằng chứng về mối liên quan giữa chế độ ăn của
mẹ trong thai kỳ/cho con bú và nguy cơ dị ứng thực phẩm ở trẻ còn không nhất
quán. Thử nghiệm mới nhằm làm rõ hiệu quả của việc bổ sung so với tránh đậu phộng
và trứng trong khẩu phần của mẹ đối với việc phòng ngừa hình thành IgE ở trẻ.
Nghiên cứu tuyển chọn phụ nữ mang thai không dị ứng với đậu
phộng hoặc trứng, nhưng có con thuộc nhóm nguy cơ cao do trong gia đình có người
thân mắc bệnh dị ứng. Thử nghiệm do Viện Dị ứng và Bệnh truyền nhiễm Quốc gia
(NIAID) tài trợ. Nghiên cứu sẽ tuyển 504 cặp mẹ–con, trong đó 25% tại Đại học
Rochester (New York) và 75% tại các trung tâm trên toàn nước Mỹ. Người mẹ được
phân ngẫu nhiên vào nhóm ăn hoặc tránh đậu phộng và trứng từ tam cá nguyệt thứ
ba đến hết giai đoạn cho con bú. Trẻ được khuyến khích bú mẹ hoàn toàn ít nhất
3 tháng. Mục tiêu chính là xác định tỷ lệ trẻ có IgE kháng đậu phộng, trứng hoặc
cả hai ở tuổi 4–6 tháng, trước khi trẻ từng ăn các thực phẩm này. Nghiên cứu được
thiết kế làm mù đối với nhóm đánh giá và phân tích dữ liệu; các cặp mẹ–con được
theo dõi đến khi trẻ đủ 1 tuổi. Kết quả của nghiên cứu dự kiến công bố vào năm
2029.
Người dịch: Phạm Thị Ngọc An
Nguồn bài viết: National Institutes of Health (NIH)
- Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Trạm Y tế cấp xã
- Bệnh cúm mùa - Tình hình toàn cầu
- Tích hợp trí tuệ nhân tạo vào chăm sóc sức khỏe: Cơ hội và thách thức
- Bụi mịn xâm nhập cơ thể con người một cách thầm lặng, làm gì để bảo vệ sức khỏe?
- Quản lý đau trong chăm sóc sức khỏe: Vai trò then chốt của nhân viên y tế