Thông tin y học
Dạo đó, ông gọi phương pháp dịch tễ học lâm sàng của ông là “Critical Appraisal” (Thẩm định có hệ thống). Mãi đến 1990, thuật ngữ “Evidence based medicine” mới ra đời, và tác giả thuật ngữ này không ai khác hơn là Gordon Guyatt, một học trò của GS David Sackett. Trong một bài báo ngắn, nhưng rất quan trọng, đăng trên Tập san y học Anh (BMJ) vào năm 1996, ông đặt nền tảng cho trường phái mà chúng ta biết đến ngày nay là "Y học thực chứng" (1). Tập san BMJ đánh giá rằng Y học thực chứng là một trong những tiến bộ quan trọng nhất trong lịch sử y học 150 năm qua. Y học thực chứng được đánh giá có tác động đến sức khoẻ con người ngang hàng với vaccine và kháng sinh.
Người khai sinh Y học thực chứng07/08/2015
Thế là một "tượng đài" y khoa lại ra đi. Giáo sư David Sackett, cha đẻ của trường phái Y học thực chứng hay "Evidence-Based Medicine" (EBM), mới tạ thế vào ngày 13/5/2015 tại Hamilton, Canada. Ông thọ 80 tuổi. Ông được xem là một "người khổng lồ" trong những người khổng lồ của khoa học. Ông ra đi nhưng để lại một di sản đồ sộ cho nền y học hiện đại, một di sản mà nhiều thế hệ mai sau sẽ còn khai thác thêm và ghi nhận những ý tưởng mang tính tiên phong của ông.
David Sacket, hình chụp năm 2009
Xuất thân thành phần lao động
GS Sackett tên đầy đủ là David Lawrence Sackett, nhưng bạn bè và đồng nghiệp thân quen thì hay gọi tắt là "Sack". Ông sinh ngày 17/11/1934 ở Thành phố Chicago, trong một gia đình thuộc thành phần lao động mà cha là nghệ sĩ thiết kế, và mẹ là thủ thư trong thư viện. Tuổi thơ của ông là những ngày tháng êm đềm trong một vùng ngoại ô đa chủng tộc. Ông cho biết rằng năm 12 tuổi ông bị polio và phải tiêu ra nhiều tháng trên giường bệnh. Đó cũng chính là thời gian ông có thì giờ đọc rất nhiều sách, và qua đó mà mở rộng tầm nhìn và nhãn quan thế giới chung quanh. Trong thời gian điều trị, ông thường hay chạy bộ, và xem đó như là một trong những biện pháp trị bệnh polio. Ông cũng là người yêu âm nhạc, và hay nghêu ngao ca hát khi có dịp.
Ông học giỏi từ thời trung học, nhưng hồ sơ học bạ ghi là ông hay vi phạm kỉ luật nhà trường. Có lần nhà trường triệu tập mẹ ông lên và cảnh báo về cậu bé David. Trong thời gian theo học ở Trường cao đẳng Lawrence (bang Wisconsin) ông thấy ham thích môn sinh lí học, nên ông quyết định theo học ngành y. Ông ghi danh vào Trường Y thuộc Đại Illinois, vì trường đó là nơi duy nhất lấy học phí thấp, vừa với túi tiền để ông có khả năng theo học.
Sau khi tốt nghiệp trường y năm 1959, ông quyết định theo đuổi nội khoa, chuyên ngành thận. Ông cho biết trong thời gian học nội trú ông hay bất đồng ý kiến với đồng nghiệp về chứng cứ khoa học. Năm 1962 khi vụ khủng hoảng Cuba xảy ra, ông nhập ngũ, và trong thời gian tại ngũ ông theo học ngành dịch tễ học. Không dừng lại ở học tập, ông suy nghĩ cách ứng dụng các khái niệm và kĩ năng dịch tễ học vào lâm sàng. Đó chính là thời gian ông đã manh nha ý tưởng về một bộ môn mà ông gọi là "Clinical Epidemiology", tức Dịch tễ học lâm sàng.
Nhưng sau đó thì ông di cư sang Canada và khởi nghiệp bên đó. Năm 1967, Giáo sư huyền thoại John Evans, lúc đó là Khoa trưởng Y khoa ĐH McMaster, "chiêu dụ" ông vềMcMaster. Cần nói thêm rằng Đại học McMaster được ví von như là Harvard của Canada. Evans quả là người nhìn xa trông rộng, vì ông đã tuyển mộ được một người mà sau này cũng thành huyền thoại như ông. Ở tuổi 32, BS David Sackett sáng lập ra bộ môn dịch tễ học lâm sàng (Department of Clinical Epidemiology) tại ĐH McMaster, và soạn cuốn sách nổi tiếng “Clinical Epidemiology: A Basic Science For Clinical Medicine”, thường được mô tả như là kinh thánh của Y học thực chứng.
Dạo đó, ông gọi phương pháp dịch tễ học lâm sàng của ông là “Critical Appraisal” (Thẩm định có hệ thống). Mãi đến 1990, thuật ngữ “Evidence based medicine” mới ra đời, và tác giả thuật ngữ này không ai khác hơn là Gordon Guyatt, một học trò của GS David Sackett. Trong một bài báo ngắn, nhưng rất quan trọng, đăng trên Tập san y học Anh (BMJ) vào năm 1996, ông đặt nền tảng cho trường phái mà chúng ta biết đến ngày nay là "Y học thực chứng" (1). Tập san BMJ đánh giá rằng Y học thực chứng là một trong những tiến bộ quan trọng nhất trong lịch sử y học 150 năm qua. Y học thực chứng được đánh giá có tác động đến sức khoẻ con người ngang hàng với vaccine và kháng sinh.
Năm 1994, ông được Đại học Oxford bổ nhiệm làm giám đốc Trung tâm Y học thực chứng. Ông có một tham vọng nóng bỏng lúc đó là giới thiệu trường phái Y học thực chứng trên toàn quốc Anh. Thật ra, việc bổ nhiệm GS Sackett ở Oxford là một việc làm gây nhiều tranh cãi, vì lúc đó Anh,vốn rất bảo thủ, chưa sẵn sàng chấp nhận Y học thực chứng. Dĩ nhiên, sau này thì chúng ta biết y giới bên Anh gần như hoàn toàn theo trường phái Y học thực chứng.
Y học thực chứng
Một cách ngắn gọn, y học thực chứng là một phương pháp thực hành y khoa dựa vào các dữ liệu y học một cách sáng suốt và có ý thức, nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân. Các dữ liệu y học ở đây là kết quả nghiên cứu y khoa đã được công bố trên các tập san y học chuyên môn. Sử dụng dữ liệu y học một cách “sáng suốt và có ý thức” có nghĩa là người thầy thuốc phải cân nhắc, đánh giá, phân loại các dữ liệu nghiên cứu y học, kết hợp cùng kinh nghiệm lâm sàng và thông tin từ bệnh nhân. Tóm lại, cái “giáo lí” căn bản của y học thực chứng là bệnh nhân cùng làm việc với bác sĩ của họ, trang bị bằng các dữ liệu khoa học, để đi đến một quyết định, một sự lựa chọn tối ưu cho bệnh nhân. Bởi vì chỉ có bệnh nhân mới biết về họ chính xác hơn là bác sĩ biết về họ.
Thay đổi căn bản mà phong trào y học thực chứng đem lại trong y học là mối quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân. Cho đến nay, mối quan hệ này không bình đẳng, vì trong đó người quyết định là bác sĩ, và bệnh nhân là người tuân hành theo quyết định đó. Y học thực chứng không muốn người bác sĩ nói “Tôi đề nghị anh nên dùng thuốc này”, hay những phát biểu mang tính khẳng định và làm áp lực như “Tôi nghĩ rằng”, “Tôi tin rằng”, “Kinh nghiệm tôi”, “Đồng nghiệp tôi từng”, v.v.GS David Sackett là người rất "dị ứng" với những cách thực hành theo kinh nghiệm cá nhân. Ông cũng không chấp nhận sách giáo khoa (như Harrison) là "phúc âm y khoa". Ông đòi hỏi phải có chứng cứ trước, và nếu không có, thì phải làm nghiên cứu để có chứng cứ. Chứng cứ khoa học, theo ông, phải là nền tảng cùng với kinh nghiệm và kĩ năng cá nhân, để đi đến quyết định.
Do đó, Y học thực chứng muốn người bác sĩ phải học cách nói “Tôi thấy có bằng chứng cho thấy thuốc này có hiệu nghiệm trong X phần trăm trong những người mang bệnh như anh. Vậy anh thấy sao?”. Sự thay đổi này, tuy bề ngoài không có gì là quá đáng, nhưng về bản chất nó dẫn đến sự suy giảm về quyền lực của người thầy thuốc, và quyền quyết định được chuyển giao cho bệnh nhân. Đây là một khía cạnh mà mối quan hệ bác sĩ – bệnh nhân sẽ thay đổi trong thời đại y học dựa vào thực chứng. Trong thực tế và ở mức độ vĩ mô, phong trào y học thực chứng ủy quyền cho dữ liệu khoa học, và do đó ủy quyền cho hai phía, bệnh nhân và bác sĩ. Hai bên cùng có lợi.
Nói một cách khác, trong thế giới y học thực chứng, người bác sĩ đóng vai trò người hướng dẫn, giới thiệu dữ liệu y học, và có trách nhiệm trình bày những dữ liệu đó trong một bối cảnh liên quan đến bệnh nhân. Nhưng quyết định cuối cùng là của bệnh nhân: họ có quyền chấp nhận hay từ chối đề nghị của bác sĩ. Nếu không có các dữ liệu y học trước họ, sự suy xét thuộc quyền sở hữu của người bác sĩ. Nhưng trong y học thực chứng, sự suy xét này của bác sĩ được chuyển nhượng cho bệnh nhân.
Y học thực chứng đòi hỏi người thầy thuốc phải biết đánh giá chứng cứ khoa học, phải biết định lượng giữa lợi và hại. GS Sackett cho rằng kế toán gia hiểu biết được tầm quan trọng của con số, nhưng giới thầy thuốc chỉ mới dần dần hiểu được sức mạnh của con số. Ông kêu gọi giới thầy thuốc phải học những bài học mà giới kế toán đã từng học hơn một thế kỉ qua.
Một người khổng lồ
Y học thực chứng mà GS David Sackett và các môn sinh của ông phát động và truyền bá là một cuộc cách mạng trong y học. Hai chữ "Evidence based" ngày nay không chỉ tồn tại trong y khoa mà còn lan sang các ngành khác. Chúng ta đã nghe qua Evidence Based Practice (thực hành dựa vào chứng cứ), Evidence Based Policy (Chính sách công dựa vào thực chứng), Evidence Based Education (Giáo dục dựa vào thực chứng), v.v. Trường phái y học thực chứng không chỉ ảnh hưởng đến một chuyên ngành hẹp, mà cho toàn bộ y khoa, và ngoài y khoa. Do đó, không ngạc nhiên khi người đời xem GS David Sackett là một "người khổng lồ" trong những nhà khoa học khổng lồ. Ông sẽ được đời nhớ đến như là một William Osler thứ hai. (Cần nói thêm rằng William Osler là một danh y của Mĩ, người đã để lại nhiều công trình có ảnh hưởng sâu sắc đến y học hiện đại).
GS David Sackett là một nhân cách đặc biệt. Người viết bài này có lần gặp và nghe ông giảng trong một seminar ở Sydney. Ông là người giản dị, rất dễ mến, nói năng cực kì thu hút, và hăng hái tranh luận bình đẳng với người đặt câu hỏi dù người đó chỉ đáng tuổi con cháu ông. Trong buổi họp, ông luôn ngồi ở hàng ghế đầu, vì ông nói rằng già rồi, ngồi phía sau diễn giả nói ông không rõ, nên phải ngồi hàng ghế đầu. Khi đặt câu hỏi, ông không bao giờ tỏ ra là hàng "cây đa cây đề" mà vẫn xếp hàng để đến phiên mình. Có lần ông bị chủ toạ cắt ngang vì ông đặt câu hỏi ... quá giờ. Ấy thế mà ông vẫn vui vẻ, không hề tỏ ra bực tức, lại còn khen người chủ toạ điều hành tốt!
Có lần ông nói chuyện trong một seminar mà slide đầu tiên ông đề tên tác giả là David Sackett and Kilgore Trout. Ai cũng ngạc nhiên vì không biết Trout là ông/bà nào! Sau này ông giải thích trout là con cá hồi và cũng là một nhân vật trong tiểu thuyết nào đó. Ông mê câu cá, nên thỉnh thoảng cho con cá đứng tên tác giả với ông.
Sau 5 năm trong vai trò giám đốc Trung tâm Y học thực chứng ở Đại học Oxford, ông quay về Canada và sống ẩn dật bên hồ Ontario. Tuy nói là "ẩn dật" nhưng ông vẫn tích cực tổ chức những chương trình workshop nổi tiếng về nghiên cứu khoa học và y học thực chứng cho môn sinh. Chương trình này lan toả trên khắp Canada sau này.
Sau khi các đồng nghiệp khắp thế giới nghe tin ông bị ung thư, rất nhiều người muốn phỏng vấn, nhưng ông đều từ chối. Tuy nhiên, sau này ông đồng ý cho họ gửi câu hỏi, và với sự trợ giúp của vợ và một đồng nghiệp thân tín, ông trả lời những câu hỏi về cuộc đời, sự nghiệp, và những bài học ông muốn để lại cho đời. Kết quả là một tập sách 104 trang được công bố trực tuyến trước mấy ngày ông tạ thế (2). Đó là một tập sách rất thú vị và rất có ích cho các bác sĩ khác noi gương và học hỏi về một nhà khoa học phi thường.
Ông là typ người làm theo những gì ông giảng. Ông nói rằng y học ngày nay tiến triển nhanh quá, nên khó có thể cập nhật thông tin và kĩ năng lâm sàng. Ông đi đến một quyết định làm ngạc nhiên biết bao đồng nghiệp: Ở tuổi 49 và đang là một giáo sư y khoa, ông xin đi học lại nội trú, và tiêu ra 2 năm trời trong chương trình nội trú! Những người học nội trú cùng ông sau này cho biết ông là một thí sinh rất khó tính, vì cái gì ông cũng hỏi "chứng cứ đâu" làm điên đầu các giáo sư khác.
Ngay cả ngày ông gần chết mà ông vẫn trung thành với triết lí và phương pháp y học thực chứng. Các đồng nghiệp của ông kể lại rằng một trong những câu hỏi ông thường hỏi bác sĩ điều trị cho ông là chẩn đoán đó có chứng cứ khoa học hay không, phương pháp điều trị có chứng cứ khoa học đáng tin cậy không. Ông bị ung thư túi mật. Bác sĩ Haynes, một người thân cận của ông cho biết khi bác sĩ điều trị nói không có chứng cứ khoa học nhiều về bệnh này, ông lẩm bẩm than rằng "một kẻ bỏ ra cả đời để quảng bá y học thực chứng mà bây giờ mắc phải một bệnh có rất ít chứng cứ.
Y học thực chứng, như đề cập trên, ngày nay đã lan toả sang các ngành nghề ngoài ngành y. Đó là một cuộc cách mạng mà các thế hệ thầy thuốc sau này khắp thế giới, kể cả ở Việt Nam,sẽ có dịp đào sâu và phát triển thêm để nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân.
Ghi chú và tham khảo:
(1) Sackett DL, et al. Evidence based medicine: what it is and what it isn't. BMJ 1996;312:71
» Tin mới nhất:
- Sử dụng thuốc cho người cao tuổi
- Cần hành động khẩn cấp khi số ca mắc bệnh tiểu đường toàn cầu tăng gấp bốn lần trong những thập kỷ qua
- Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị suy tim cấp và mạn
- Hướng dẫn quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản - nội dung chăm sóc sức khỏe sinh sản vị thành niên và thanh niên
- NGÀY ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THẾ GIỚI NĂM 2024
- Viêm họng liên cầu khuẩn
- TỶ LỆ TIÊM CHỦNG CHO TRẺ EM TOÀN CẦU BỊ ĐÌNH TRỆ KHIẾN NHIỀU TRẺ EM KHÔNG ĐƯỢC BẢO VỆ
- SỬ DỤNG VÁC XIN TỐT HƠN CÓ THỂ GIÚP GIẢM 2,5 TỶ LIỀU KHÁNG SINH MỖI NĂM
- Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị viêm phổi mắc phải cộng đồng ở người lớn
- Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh viêm gan vi rút C
» Tin khác: